Điều trị viêm tắc động mạch chi dưới?
Chống ngưng tập tiểu cầu:
Chỉ định trong điều trị BĐMCD không triệu chứng với ABI ≤ 0,9
Giảm nguy cơ NMCT, đột quỵ, tử vong do nguyên nhân mạch máu khác.
Aspirin (75 – 325 mg/ng): an toàn và hiệu quả trong chỉ định điều trị BĐMCD do xơ vữa.
Clopidogrel (75 mg /ng): an toàn và hiệu quả trong chỉ định thay thế Aspirin để điều trị BĐMCD do xơ vữa.
Hiệu quả chưa rõ ràng về điều trị thuốc chống ngưng tập tiểu cầu đối với BĐMCD do xơ vữa không triệu chứng và ABI từ 0,91 – 0,99.
Phẩu thuật thiếu máu chi dưới trầm trọng:
Bệnh nhân TMCDTT có tổn thương cả tầng động mạch chủ – chậu và đùi – khoeo, cần được ưu tiên điều trị tầng động mạch chủ – chậu trước.
Nên chỉ định can thiệp nong bóng để cải thiện tưới máu động mạch phía xa ở bệnh nhân thiếumáu chi dưới trầm trọng có tiên lượng sống dưới 2 năm hoặc không thể làm phẫu thuật bắc cầu nối ĐM bằng tĩnh mạch tự thân.
Nên chỉ định phẫu thuật bắc cầu để cải thiện tưới máu động mạch phía xa ở bệnh nhân thiếumáu chi dưới trầm trọng có tiên lượng sống trên 2 năm và có khả năng làm phẫu thuật bắc cầu nối ĐM bằng tĩnh mạch tự thân.
Tiêu huyết khối thiếu máu cấp hoặc mạn:
Điều trị tiêu huyết khối qua catheter là phương pháp hiệu quả để điều trị bệnh nhân TMCCD có thời gian dưới 14 ngày.
Dụng cụ hút huyết khối được cân nhắc sử dụng với bệnh nhân thiếu máu cấp chi dưới do tắc nghẽn động mạch ngoại vi.
Tiêu huyết khối qua đường catheter và hút huyết khối có thể cân nhắc chỉ định với bệnh nhân TMCCD có thời gian trên 14 ngày.
Điều trị nội và ngoại khoa?
Tránh sự lan rộng của cục máu đông: Từ khi ra đời thuốc heparin, tạo ra cuộc cách mạng trong điều trị thiếu máu cấp tính chi dưới. Heparin sẽ được bác sĩ dùng ngay khi xác định chẩn đoán. Bên cạnh điều trị thuốc, cần sớm xử lý lấy bỏ cục máu gây tắc mạch, phương pháp hiện nay chủ yếu bằng phẫu thuật. Cục máu đông sẽ được lấy bỏ bằng một dụng cụ đặc biệt, gọi là Fogarty. Đến nay, một số trung tâm mạch máu tại các bệnh viện lớn của nước ta đã được trang bị dụng cụ này để có thể tiến hành phẫu thuật cấp cứu. Ngoài ra, tùy vào bệnh lý cụ thể, có thể phải cân nhắc làm cầu nối mạch máu hoặc dùng thuốc làm tan huyết khối hoặc phối hợp với kỹ thuật hút bỏ huyết khối. Khi có dấu hiệu chèn ép khoang, cần phải phối hợp mở cân.
Cắt cụt chi là phương pháp cuối cùng, khi thiếu máu không hồi phục hoặc khi điều trị tái tưới máu thất bại, có rối loạn toàn thân do hội chứng tái tưới máu, rối loạn chuyển hóa gây đe dọa tính mạng.
Bên cạnh điều trị tái tưới máu, cần điều trị các bệnh lý gây thuận lợi cho tắc mạch, điều trị các nguyên nhân dẫn đến tắc mạch chi cấp như bệnh van tim, rối loạn nhịp tim, bệnh lý mạch máu mạn tính…
Để phòng tránh tắc mạch chi dưới cấp tính, cần điều trị tốt các bệnh lý có thể là nguyên nhân dẫn đến tắc mạch cấp và quan trọng nhất là khi có biểu hiện bất thường, cần nhanh chóng đến cơ sở chuyên khoa mạch máu để được thăm khám, chẩn đoán và điều trị sớm nhất. Hiện nay, đa số bệnh nhân đến viện vẫn còn ở giai đoạn muộn dẫn đến khả năng bảo tồn chi còn rất hạn chế. Một số người bệnh có đến viện nhưng không đúng chuyên khoa cũng dẫn đến mất cơ hội bảo tồn chi và làm giảm kết quả điều trị, vì vậy trong tắc động mạch chi cấp tính, vấn đề chẩn đoán kịp thời và thời gian được điều trị là rất quan trọng.